80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường: Môi trường là 3 trụ cột trung tâm, thúc đẩy phát triển bền vững
Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định ba trụ cột "Kinh tế–Xã hội–Môi trường" là trung tâm, thúc đẩy phát triển bền vững và chuyển đổi tư duy toàn diện. Trong đó, lĩnh vực môi trường đang triển khai trên nhiều chương trình, dự án, mô hình sản xuất, góp phần tích vực vào việc đưa phát thải ròng về 0 vào 2050.
Từ ngày 1/3/2025, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành sáp nhập với Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Sau khi "về chung nhà" Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định ba trụ cột "Kinh tế – Xã hội – Môi trường" là trung tâm, thúc đẩy phát triển bền vững và chuyển đổi tư duy toàn diện.
Riêng đối với lĩnh vực "Môi trường", tại buổi làm việc với lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường hồi đầu tháng 8/2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã nhấn mạnh: "Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, thông qua việc giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi năng lượng. Ngành nông nghiệp và môi trường đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng khung pháp lý và tiêu chí cho phát triển bền vững. Việc sáp nhập hai ngành nông nghiệp và môi trường được coi là một quyết định chiến lược".
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhiệm kỳ 2025-2030 cũng đã được xác định, với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính ít nhất 15,8% và tỷ lệ xử lý nước thải đạt khoảng 65-70%.
Để tiếp tục khẳng định vai trò dẫn dắt, chủ động phát triển bền vững, từ tư duy “bảo vệ môi trường” sang “kinh tế môi trường”, chuyển đổi xanh, kinh tế carbon thấp, kinh tế tuần hoàn, thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành các Đề án, Kế hoạch, Chương trình hành động. Trong đó phải kể đến như: Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 20 ngày 12/7/2025 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường; Quyết định phê duyệt Đề án ngày 29/9/2025 về "Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn 2050".
Canh tác lúa bền vững hướng đến tương lai - Bayer ForwardFarming".
Tại các Luật chuyên ngành như: Luật Chăn nuôi, Luật Thủy sản, Luật Trồng trọt, Luật Lâm nghiệp, Luật Tài nguyên nước... cũng đều khẳng định vai trò của vấn đề môi trường, đồng thời hướng tới sản xuất xanh, sạch, an toàn, tuần hoàn, hữu cơ.
Tại diễn đàn Quốc hội, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, sau gần bốn năm thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 công tác bảo vệ môi trường đã có chuyển biến rõ rệt về thể chế, nhận thức và tổ chức thực hiện. Nhiều chính sách mới bước đầu phát huy hiệu quả, như thay đổi phương thức quản lý chất thải, coi chất thải là tài nguyên, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong tái chế, xử lý chất thải được đề cao, trong khi vai trò giám sát của cộng đồng được tăng cường.
Nhiều đô thị sinh thái, khu công nghiệp sinh thái đã được hình thành; hệ thống quan trắc môi trường tự động mở rộng; chất lượng môi trường ở nhiều khu vực được cải thiện, nhiều vấn đề tồn đọng nhiều năm được xử lý căn bản.
Nhận thức của xã hội đã thay đổi tích cực, người dân xem bảo vệ môi trường là trách nhiệm và quyền lợi của chính mình.
Tư lệnh ngành Nông nghiệp và Môi trường cũng đưa ra những con số "biết nói" khi so với giai đoạn trước năm 2020, các chỉ tiêu môi trường đã có bước tiến rõ rệt: Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị tăng từ 94,71% năm 2020 lên 97,28% năm 2024.
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng từ 89,47% năm 2020 lên 95,37% năm 2025.
Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý tăng từ 14% năm 2020 lên 18% năm 2024; Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,3% năm 2024, tăng từ 42% năm 2020.
Số cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng giảm mạnh chưa được xử lý, từ 83 cơ sở năm 2020 xuống còn 38 cơ sở năm 2025.
Từ ngày 1/1/2025, các địa phương sẽ phải thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn. Ảnh: Nguyễn Quý
Theo xếp hạng quốc tế, Việt Nam tăng 33 bậc, từ vị trí 87 lên 54/166 quốc gia, về mức độ thực hiện các chỉ tiêu môi trường. Trong ASEAN, Việt Nam được đánh giá có bước tiến rõ rệt.
Ngày 7/11, tại Diễn đàn "Năng lượng xanh - Thành phố sạch", Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành cho biết, trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm tài nguyên, việc lựa chọn con đường phát triển xanh, chuyển dịch năng lượng sạch là xu thế tất yếu và là trách nhiệm chung của các quốc gia.
Theo ông Thành, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách lớn như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, cùng các Kế hoạch hành động quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính. Đây là nền tảng vững chắc để thúc đẩy nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp, hướng tới mục tiêu “Việt Nam xanh, sạch, đáng sống”.
Góp phần đưa phát thải ròng về 0 vào 2050
Một trong những điểm nhấn đáng chú ý trong quản lý, bảo vệ môi trường được Bộ Nông nghiệp và Môi trưởng triển khai thực hiện đang nhận được sự quan tâm, hưởng ứng mạnh mẽ của người dân và dư luận, đó là phân loại rác tại nguồn, quy định tại Luật Bảo vệ môi trường 2020. Theo đó, từ ngày 1/1/2025, các địa phương sẽ phải thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn.
Hiện mỗi ngày, cả nước phát sinh khoảng 68.000 đến 69.400 tấn rác thải sinh hoạt. Con số này bao gồm rác thải từ các đô thị lớn như Hà Nội (khoảng 7.600 tấn) và TP. Hồ Chí Minh (khoảng 14.000 tấn).
Thống kê cho thấy, nếu thực hiện tốt phân loại rác tại nguồn sẽ giúp giảm 60-75% lượng rác là rác thực phẩm, giảm 15-20% lượng rác là rác tái chế và chỉ còn khoảng 25-30% rác thải phải mang đi chôn lấp hoặc xử lý tại các nhà máy, mang lại hiệu quả rất lớn với môi trường và sức khoẻ con người.
TS Nguyễn Thế Chinh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam cho rằng, để phân loại rác hiệu quả, cần nâng cao nhận thức của người dân. Đầu tiên, cần hướng dẫn cụ thể về kỹ thuật thu gom và phân loại rác. Tiếp theo, hạ tầng thu gom rác thải phải được cải thiện để hỗ trợ việc phân loại. Cuối cùng, cần có các chế tài về phân loại rác.
Trong các lĩnh vực sản xuất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang đẩy mạnh, khuyến khích xây dựng các mô hình nông nghiệp giảm phát thải, tuần hoàn, hữu cơ...
Nổi bật trong đó, là Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL. Kết quả mới nhất tại vụ Hè-Thu 2025 cho thấy, khi tham gia mô hình, nông dân đã giảm sử dụng giống 50-65%; giảm phân bón trung bình từ 31,3%; giảm 1-3 lần số lần phun thuốc bảo vệ thực vật; có 7/10 mô hình đảm bảo rút nước 2 lần; 4/11 mô hình rút nước thành công 3 lần; 100% mô hình thu gom rơm rạ khỏi ruộng.
Riêng tại tỉnh An Giang, có khoảng 351.000ha tham gia. Riêng trong vụ hè thu 2025, tỉnh thực hiện thí điểm 2 mô hình sản xuất lúa theo quy trình Đề án 1 triệu ha tại xã Bình Thạnh Đông và xã Tân Hội. Kết quả cho thấy, mô hình giúp giảm chi phí trung bình hơn 4,1 triệu đồng/ha, tăng năng suất gần 0,8 tấn/ha, lợi nhuận tăng thêm từ 5-8 triệu đồng/ha, mô hình giúp giảm phát thải trung bình khoảng 8 tấn khí CO2 tương đương/ha.
GĐ HTX Tiến Thuận (bìa phải) phấn khởi cho biết: canh tác theo Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp, chi phí giống, nước, phân bón, thuốc đều giảm, mà năng suất lại tăng, bông lúa dài hơn, hạt nhiều, đều và chất lượng hơn.
Hay như ở tỉnh Đồng Tháp, năng suất lúa đã đạt 7,1 tấn lúa/ha, tăng 4% so với ngoài mô hình. Lợi nhuận nông dân thu được gần 28 triệu đồng/ha, tăng hơn từ 4,6-4,8 triệu đồng/ha so với ngoài mô hình. Giá thành sản xuất trong mô hình giảm khoảng 500 đồng/kg lúa. Thu nhập tăng thêm từ việc bán rơm là 400 nghìn đồng/ha. Lượng giảm phát thải đo trong mô hình này cũng đạt khoảng 3,13 tấn CO2/ha/vụ.
Tại buổi làm việc với các bộ ngành, địa phương về Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, Đề án mang lại ý nghĩa rất lớn, không chỉ về mặt vật chất mà còn quan trọng về chính trị và giá trị tinh thần. Theo đó, Đề án không chỉ đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho Việt Nam, các nước đối tác trong khu vực và bạn bè quốc tế mà còn tạo đầu ra rộng, tránh được vấn đề được mùa mất giá, được giá mất mùa. Nếu bà con có kế hoạch đầu tư, phát triển một cách khoa học, bài bản, chuyên nghiệp, hệ thống sẽ mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó còn góp phần chống biến đổi khí hậu, tạo công ăn việc làm và sinh kế ổn định cho người dân, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong nông nghiệp, nhất là chế biến sâu; tạo tính liên kết vùng, liên kết quốc tế trong chuỗi cung ứng, đa dạng hóa chuỗi sản xuất, thị trường…



