Giao khoán đất lâm nghiệp, phải “trao quyền” cho nông dân trồng rừng
Theo nhiều chuyên gia, chính sách khoán đất lâm nghiệp nên chuyển từ mục tiêu an sinh sang phát triển kinh tế, khắc phục sự chồng chéo, nâng cao hiệu quả quản lý, không để người trồng rừng thiệt thòi.
Chính sách giao khoán đất lâm nghiệp còn bất cập
Tại hội thảo “Hiện trạng và đề xuất giải pháp giao khoán đất lâm nghiệp trong các công ty lâm nghiệp” mới đây, ông Nguyễn Văn Tiến - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, cho biết, trong quá trình nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giao khoán đất lâm nghiệp trong các công ty lâm nghiệp, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tại 26 công ty lâm nghiệp (trong tổng số 169 công ty lâm nghiệp trên cả nước).
Kết quả cho thấy, 26 công ty lâm nghiệp này đang quản lý 292.632,47 ha, trong đó đất lâm nghiệp là 290.008,19ha. Có 21 công ty đã thực hiện giao khoán 121.722,59 ha, chiếm 41,59%. Hầu hết cán bộ quản lý và người dân được phỏng vấn, cho biết chính sách khoán đất lâm nghiệp đã thu hút được các nguồn lực xã hội tham gia quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên đất khoán; tạo ra nhiều mô hình trồng rừng, sản xuất nông lâm kết hợp hiệu quả trên diện tích khoán. Giao khoán bảo vệ rừng giúp ổn định an ninh trật tự, giảm áp lực lên rừng tự nhiên, nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Thu nhập từ lâm nghiệp chiếm trung bình 31,73% tổng thu nhập của hộ nhận khoán.

Mô hình trồng rừng gỗ lớn ở xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Ảnh: Lê Thông
Mặc dù vậy, ông Tiến nêu lên nhiều vấn đề bất cập, vi phạm nảy sinh trong vấn đề giao khoán đất rừng. Công tác quản lý diện tích khoán của các đơn vị chủ rừng chưa chặt chẽ đã dẫn đến rất nhiều hộ nhận khoán tự ý chuyển mục đích sử dụng đất, xây dựng công trình trên đất nhận khoán.
Nhiều hợp đồng khoán đã xác lập có nhiều nội dung không chặt chẽ, chưa đảm bảo về mặt pháp lý, gây khó khăn, hoặc không xử lý được khi hộ nhận khoán vi phạm hợp đồng. Quy định về quyền lợi và trách nhiệm của người nhận khoán rừng chưa rõ ràng, gây khó khăn trong việc phân định trách nhiệm nếu xảy ra sai phạm.
Bên cạnh đó, chưa có chế tài quy định xử lý trách nhiệm đối với cộng đồng, nhóm hộ, các hộ nhận khoán bảo vệ rừng khi để xảy ra vi phạm pháp luật trên diện tích được giao khoán. Những diện tích khoán có diện tích đất nông nghiệp và nương rẫy xen lẫn với rừng tạo ra khó khăn trong công tác quản lý bảo vệ diện tích rừng được giao. Việc xử lý tài sản trên đất (cây trồng, nhà ở, nhà tạm, sân phơi, giếng đào…) khi thanh lý hợp đồng, thu hồi diện tích khoán còn lúng túng, không biết theo quy định nào, cơ quan nào định giá tài sản…
Trước những bất cập trên, ông Nguyễn Văn Tiến kiến nghị cần điều chỉnh bổ sung cơ chế chính sách theo hướng: Với diện tích đã giao/cho thuê quyền quản lý sử dụng đất cho công ty thì để công ty chủ động thực hiện các biện pháp kinh doanh theo quy định của pháp luật.
“Cơ quan quản lý cần tăng cường thanh, kiểm tra, hướng dẫn và chỉ đạo tổ chức thực hiện về quản lý sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; xử lý các trường hợp tranh chấp hợp đồng khoán, cho thuê, cho mượn, lấn chiếm, tranh chấp, liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư sai quy định và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai. Đồng thời, lập phương án quản lý, sử dụng đất của các công ty nông lâm nghiệp khi trả về địa phương gắn với chính sách giải quyết đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm an sinh xã hội”, ông Tiến đề xuất.
Tư duy thông thoáng trong giai đoạn mới
TS Hà Công Tuấn - Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển hóa chính sách khoán rừng từ mục tiêu an sinh sang phát triển kinh tế, đảm bảo quyền lợi cho người làm rừng và nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng. Theo ông, chính sách giao khoán đất lâm nghiệp, vốn khởi đầu với Nghị định 01, được xem là một bước ngoặt trong quá trình huy động toàn dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.
Vào thời điểm ban hành Nghị định 01, nạn phá rừng diễn ra tràn lan, khiến việc “trao quyền” cho người dân thông qua hình thức khoán đất rừng vừa là giải pháp kinh tế vừa là biện pháp an sinh xã hội. Cơ chế này đã tạo ra một chuyển biến mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần trách nhiệm của người dân địa phương trong công cuộc giữ rừng.
Tuy nhiên, cùng với thời gian, các chính sách khoán cũng có sự điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn và định hướng phát triển. Nghị định 135 kế thừa và cải tiến mô hình khoán bằng cách xác lập thời hạn giao đất ổn định theo chu kỳ sản xuất thay vì cố định 50 năm như trước đó. Đến Nghị định 168, phạm vi giao khoán được mở rộng thêm các hình thức như khoán công việc, khoán dịch vụ bên cạnh hình thức khoán ổn định theo chu kỳ. Những thay đổi này mang lại sự linh hoạt hơn cho các chủ rừng, giúp họ chủ động hơn trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phù hợp với điều kiện thực tế.
Dù vậy, số lượng hợp đồng giao khoán theo các Nghị định đang dần đến thời điểm hết hạn, không ít trong số này có dấu hiệu vi phạm. Theo kết quả khảo sát thực địa, những vi phạm này không chỉ liên quan đến việc sử dụng sai mục đích mà còn tồn tại tình trạng tranh chấp, thiếu minh bạch, không tuân thủ quy định kỹ thuật lâm sinh.
Quan điểm của nguyên Thứ trưởng Bộ NNPTNT là, phải xử lý sớm, dứt điểm các hợp đồng sai phạm, kiên quyết thu hồi diện tích bị sử dụng sai để bảo vệ tài nguyên rừng và tạo điều kiện cho những mô hình bền vững hơn.
Từ góc độ chính sách, TS Hà Công Tuấn đề nghị cần có bước chuyển về tư duy: Chính sách giao khoán không thể tiếp tục mang tính “an sinh xã hội” như giai đoạn đầu, mà phải trở thành công cụ thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp. Ông nhấn mạnh, các chương trình an sinh xã hội đã được khu biệt trong 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Do đó, chính sách khoán rừng cần tách khỏi vai trò này để tập trung phát triển sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng từ rừng.
“Không để người làm rừng thiệt thòi ngay từ trong chính sách”, TS Hà Công Tuấn nhấn mạnh và đề nghị, những chính sách mới cần hướng đến sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, tạo hành lang pháp lý thông thoáng để tất cả các thành phần kinh tế có thể đầu tư, khai thác hiệu quả tiềm năng từ rừng.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị cho hay, sau 30 năm thực hiện chính sách về giao khoán đã góp phần làm chuyển biến tích cực trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và phát triển lâm nghiệp, cơ bản đáp ứng mục tiêu huy động nguồn lực xã hội, đặc biệt là người dân địa phương tham gia cùng với các công ty lâm nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách giao khoán cũng còn bộc lộ những bất cập và hạn chế, đặc biệt là việc quản lý đất đai và rừng gắn với sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của các Công ty nông, lâm nghiệp.Vì vậy, ngày 2/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 103-KL/TW, trong đó chỉ đạo: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, nhất là văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, quản lý, sử dụng tài sản công để hoàn thành sớm việc sắp xếp, đổi mới và thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả của các công ty nông, lâm nghiệp.